Giới thiệu về dòng Ốc mượn hồn hay còn gọi là Cua ẩn sĩ
Giới thiệu về dòng Ốc mượn hồn hay còn gọi là Cua ẩn sĩ
- Tên thường gọi: Ốc mượn hồn (cua ẩn sĩ)🐌🐚
- Tên khoa học: Paguroidea
- Loài: Động Vật Giáp Xác 🐚
- Chế độ ăn: Động vật ăn thịt, ăn rau củ, hoa quả 🍉🍌🥒🍖🥚🍊
- Môi trường sinh sống : Cạn, bán cạn
Đặc điểm
- Không giống như bụng của các loài động vật giáp xác có liên quan, bụng của hầu hết các loài cua ẩn sĩ đều có bụng dài, xoắn cong, mềm mại.
- Vùng bụng của chúng dễ bị tổn thương, được bảo vệ khỏi những kẻ săn mồi bằng một vỏ sò rỗng, được cua ẩn sĩ mang trên lưng khi di chuyển, toàn bộ cơ thể của ốc có thể co rút lại.
- Thông thường, cua ẩn sĩ sử dụng vỏ ốc biển (mặc dù vỏ, scaphopods và cả những mảnh gỗ và đá rỗng đã được một số loài sử dụng).
- Lưng bụng của cua ẩn sĩ được biến đổi để có thể bám chặt vào độ xoắn của vỏ ốc.
Cua ẩn sĩ hoạt động chủ yếu vào ban đêm.
Môi trường sống
Cua ẩn sĩ , Ốc mượn hồn có thể chia thành hai nhóm dựa theo môi trường sống:
Thank you for reading this post, don't forget to subscribe!- Cua ẩn sĩ, ốc mượn hồn sống trên cạn 🐌🌞
- Cua ẩn sĩ, ốc mượn hồn biển 🌊💦
Cua ẩn sĩ sống trên cạn ( Land hermit crab): Tất cả chúng đều thuộc họ Coenobitidae. Tuy sống hầu hết trên đất liền vùng nhiệt đới nhưng cua vẫn cần tiếp xúc với cả nước ngọt lẫn nước mặn để giữ cơ thể luôn luôn ướt giúp chúng tồn tại và sinh sản.
Trong số 15 loài trên cạn của chi Coenbita trên thế giới, một số loài được nuôi trong môi trường nhân tạo:
- Cua ẩn sĩ Caribbean (Coenobita clypeatus)
- cua ẩn sĩ đất Úc (Coenobita variabilis)
- cua ẩn sĩ Ecuador (Coenobita compressus).
Một số loài khác mặc dù ít phổ biến nhưng càng ngày chúng càng khả dụng và được sử dụng phổ biến làm vật nuôi:
- Coenobita brevimanus
- Coenobita rugosus
- Coenobita perlatus
- Coenobita cavipes.
Cua ẩn sĩ biển (chỉ có một loài duy nhất là Clibanarius fonticola – sống trong nước ngọt).
Những con cua này sống dưới nước chủ yếu dưới dạng động vật thủy sinh. Chúng sống ở các độ sâu khác nhau của vùng biền nước mặt từ các rạn san hô và bờ biển đến đáy biển sâu và hiếm khi rời khỏi đất liền. Cua ẩn sĩ biển cũng được nuôi giữ để làm vật nuôi trong hồ thuỷ sinh.
Chúng thường được nuôi trong các bể các có rạn san hô. Cua thở qua mang nhưng chúng không phải mang theo nước để phục vụ mục đích hô hấp. Hầu hết các loài cua ẩn sĩ biển có thể tồn tại trong một thời gian ngắn trên đất liền. Một số loài không sử dụng nhà di động mà sống trong các cấu trúc bất động như san hô, bọt biển, động vật chân bụng.
Phân loại
Cua Hermit có quan hệ chặt chẽ với tôm hùm và cua sứ hơn là những cua thường. Tuy nhiên, mối quan hệ của cua với phần còn lại của Paguroidea là một đề tài gây tranh cãi.
Nhiều nghiên cứu dựa trên đặc điểm vật lí, thông tin di truyền và kết hợp các dữ liệu cho rằng cua trong họ Lithodidae có nguồn gốc từ cua ẩn sĩ và nên được phân vào nhóm Paguroidea.
Các nhà nghiên cứu khác lại phản đối quan điểm này, họ khẳng định rằng Lithodidae nên được đặt với Hapalogastridae trong một họ siêu nhỏ là Lithodoidea.
Sáu họ được công nhận trong họ Paguroidea, chứa khoảng 1100 loài trong tổng số 120 chi.
- 2 chi Coenobitidae Dana, 1851 – : cua ẩn sĩ trên cạn và cua dừa
- 20 chi Diogenidae Ortmann, 1892
- 76 chi Paguridae Latreille, 1802
- 10 chi Parapaguridae Smith, 1882
- 2 chi Parapylochelidae Fraaije et al., 2012
- 9 chi Pylochelidae Bate, 1888
- 2 chi “cua hermit đối xứng” Pylojacquesidae McLaughlin & Lemaitre, 2001